CÁC HẠ 閣下, TÚC HẠ 足下


CÁC HẠ 閣下, TÚC HẠ 足下

Xưa người ta thường tôn xưng các quan chức hoặc người trên là CÁC HẠ.

Theo sách Nhân Thoại Lục thì thời cổ các quan Tam công có lầu các riêng làm dinh thự, các quan quận huyện cũng có lầu các. Nên sau dùng hai tiếng CÁC HẠ nghĩa là “dưới gác” để tôn xưng các quan.

Hai chữ TÚC HẠ người Tàu cũng dùng để tôn xưng có giá trị như tiếng NGÀI của ta vậy.

Về lai lịch của từ “túc hạ”, có liên quan đến một câu chuyện đau buồn:

Đời Xuân Thu, vua Tấn Văn Công nước Tấn gặp loạn phải bỏ nước lưu vong, gặp được một hiền sĩ tên là Giới Tử Thôi theo giúp. Về sau, Tấn Văn Công trở về làm vua, phong thưởng cho những người có công nhưng lại quên mất Giới Tử Thôi. Giới Tử Thôi không oán giận gì, về nhà đưa mẹ vào núi ở ẩn. Tấn Văn Công nhớ ra, cho người đi tìm. Vì Giới Tử Thôi không chịu ra lĩnh thưởng, Tấn Văn Công hạ lệnh đốt rừng để ép ông phải ra; cuối cùng, hai mẹ con ông đều chết cháy. Vua thương xót, lập miếu thờ và hạ lệnh kiêng đốt lửa ba ngày, chỉ ăn đồ ăn nguội đã nấu sẵn để tưởng niệm. Tấn Văn Công còn sai người chặt một khúc gỗ nơi cây Tử Thôi ôm đem về cung làm thành đôi guốc. Mỗi khi tưởng nhớ đến Giới Tử Thôi bèn nhìn xuống chân, than rằng: Đau xót thay, túc hạ!

Từ đấy hai tiếng TÚC HẠ dùng làm tiếng tôn xưng người khác. “túc hạ” có nghĩa đen là dưới chân, nhưng hoàn toàn không phải chỉ việc bị người ta giậm ở dưới chân, mà là lấy ý nhìn thấy vật nhớ đến người, cảm niệm tình hữu nghị, biểu đạt sự tôn kính đối với bằng hữu.



紫微斗数, 易经, 风水
Tử Vi, Kinh Dịch, Phong Thủy: nghiên cứu, đào tạo và ứng dụng
TUVI.SCHOOL
> Xem và luận Tử Vi trọn đời và chuyên sâu
> Tư vấn đặt tên cho con theo Ngũ Hành, Kinh Dịch
> Tư vấn chọn ngày tốt cho các việc đại sự
> Đào tạo chuyên sâu về triết học Đông - Tây, Tử Vi, Kinh dịch, Phong Thủy.

0 Nhận xét